Cuộc đời Nhân_Thọ_(Nhà_Thanh)

Nhân Thọ sinh vào ngày 6 tháng 3 (âm lịch) năm Gia Khánh thứ 15 (1810), trong gia tộc Ái Tân Giác La. Ông là con trai trưởng của Duệ Cần Thân vương Đoan Ân, mẹ ông là Trắc Phúc tấn Triệu Giai thị (趙佳氏)[1].

Thời Đạo Quang

Năm Đạo Quang thứ 3 (1823), ông được ban thưởng mang Hoa linh (花翎).[note 1] Tháng 8 năm thứ 6 (1826), cha ông qua đời, nên ông được thế tập tước vị Duệ Thân vương đời thứ 6,[2] được phép hành tẩu trong nội đình.[3]

Năm thứ 7 (1827), tháng 10, ông trở thành Tổng tộc trưởng của Chính Hồng kỳ.[note 2] Tháng 8 năm sau (1828), ông quản lý sự vụ Lưỡng dực Tông học (左右宗學).[note 3][note 4]

Năm thứ 9 (1829), tháng 8, ông được ban thưởng mang Tam nhãn Hoa linh,[note 1] được phép hành tẩu trong nội đình. Tháng 10 năm sau (1830), ông nhậm chức Tông Nhân phủ Hữu tông chính (右宗正).[4] Đến năm thứ 11 (1831) lại điều làm Đô thống Hán quân Tương Bạch kỳ.[5] Tháng 11 năm thứ 12 (1832), ông trở thành Tương Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần,[6] kiêm Nội đại thần (內大臣).[7]

Năm thứ 14 (1834), thay quyền Đô thống Hán quân Tương Hoàng kỳ,[8] đến tháng 10 lại quản lý sự vụ Chính Hoàng kỳ Giác La học (覺羅學). Hai năm sau (1836), ông nhậm chức Đô thống Mông Cổ Chính Hồng kỳ[9]. Tháng 11, điều làm Ngọc Điệp quán Tổng tài (玉牒館總裁), phụ trách biên soạn Ngọc điệp cho nhà Thanh,[10] kiêm Chính Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần.[11]

Năm thứ 17 (1837), ông thay quyền Đô thống Mông Cổ Tương Hồng kỳ.[12] Tháng giêng năm thứ 18 (1838), ông được điều làm Đô thống Mãn Châu Chính Hoàng kỳ.[13] Tháng 2 cùng năm thì nhậm chức Duyệt binh Đại thần (閱兵大臣)[14] kiêm Tông Nhân phủ Tả tông chính (左宗正).[15] Tháng 9, lại điều làm Tương Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần.

Năm thứ 21 (1841), ông nhậm chức Đô thống Mông Cổ Tương Lam kỳ, thay quyền quản lý Hỏa khí doanh (火器营).[16] Năm sau thì thay quyền Đô thống Hán quân Tương Lam kỳ.[17] Đến tháng 2 năm thứ 25 (1845), ông nhậm chức Chính Bạch kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần.[18][19]

Năm thứ 26 (1846), ông tiếp tục thay quyền Đô thống Mãn Châu Chính Hoàng kỳ,[20] và nhậm Tả tông chính (左宗正).[21] Đến tháng 5 thì nhậm Tương Hoàng kỳ Lĩnh thị vệ Nội đại thần.[22] Hai năm sau (1848), ông lần lượt thay quyền Đô thống Hán quân Chính Hoàng kỳ,[23] nhậm chức Tông lệnh (宗令) đứng đầu Tông Nhân phủ,[24] thay quyền quản lý Tông nhân phủ Ngân khố (宗人府银库).[25]

Thời Hàm Phong và Đồng Trị

Năm Hàm Phong nguyên niên (1851), ông thay quyền Đô thống Hán quân Chính Lam kỳ.[26] Đến tháng giêng năm thứ 5 (1855) thì nhậm chức Tổng lý hành dinh sự vụ (總理行營事務). Năm thứ 6 (1856), ông thay quyền Đô thống Hán quân Tương Bạch kỳ.[27]

Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), tháng 2, ông được điều làm Đô thống Mãn Châu Tương Hồng kỳ.[2] Năm thứ 3 (1864) lại thay quyền Đô thống Mông Cổ Chính Hoàng kỳ.[28] Cùng năm đó, ngày 10 tháng 10 (âm lịch), giờ Mùi, ông qua đời, thọ 55 tuổi, được truy thụy Duệ Hy Thân vương (睿僖親王).[29][30]

Liên quan